KÍNH MỪNG NGÀY ĐỨC PHẬT ĐẢN SANH THỊ HIỆN 08/04 PL.2568 - ÁNH ĐẠO VÀNG SOI TỎ VÀO LÒNG VẠN PHÁP, SOI SÁNG KHẮP CẢ THẾ GIAN
Mỗi độ tháng Tư Âm lịch hàng năm, khi những cánh sen bắt đầu khoe sắc nở, một mùa hoa Vô Ưu lại về là dịp để tất thảy những người con Phật, những người mến mộ đạo Phật cùng tưởng nhớ, ôn lại Phật hạnh sáng ngời, tri ân công hạnh, tình yêu thương cũng như quán chiếu những lời dạy minh triết vượt thời gian của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni đến với toàn chúng sinh trong ba cõi.


Trước khi thành Phật ở kiếp cuối cùng, Đức Phật đã trải qua vô lượng kiếp tu hành Bồ Tát đạo. Trải qua A-tăng-kỳ kiếp, hàng trăm nghìn đại kiếp, Đức Phật đã chịu muôn vàn gian truân vất vả để thành tựu đại nguyện Bồ Đề. Vì lòng bi mẫn muốn cứu khổ và làm lợi ích cho chúng sanh vạn loài mà Đức Phật đã thị hiện vào cuộc đời. Ngài có vô lượng hạnh nguyện của các Bồ Tát, an trụ vào các pháp, công đức trọn đầy, rồi dạo bước khắp mười phương, tùy theo phương tiện cứu độ chúng sanh, khiến cho tất cả qua khỏi đường sinh tử, vào được Pháp tạng của chư Phật.

Trong Kinh Vô Lượng Thọ, quyển Thượng, Đức Phật dạy: “...Như Lai đem lòng đại bi vô tận, thương xót chúng sanh trong ba cõi, nên mới thị hiện ra đời, khai sáng đạo giáo, để cứu vớt quần sanh, khiến cho họ được nhiều lợi ích chơn thật. Như Lai vô lượng kiếp khó gặp, khó thấy, cũng như hoa ưu đàm trải qua bao kiếp mới trổ một lần...”.

Chính vì thế, khi Thái tử Tất Đạt Đa ra đời, tất cả Trời, người, muôn loài đều hân hoan, cỏ cây hoa lá đua nở. Chim hót vang ca, nhạc trời reo vang, hoa trời tung rải khắp nơi, chúng sinh các cõi đều hân hoan, hạnh phúc. Khi Ngài xuất gia cầu đạo, đắc thành vị Phật Toàn Giác trên thế gian, giáo Pháp mà Ngài chứng ngộ đã thắp lên ngọn đèn trí tuệ soi rọi cho chúng sinh trong màn đêm u tối của vô minh, là con đường đưa chúng sinh thoát khỏi sự ràng buộc đau khổ của sanh tử luân hồi. Không ngoại trừ một ai, không phân biệt màu da, tôn giáo, bất kỳ ai thực hành theo giáo Pháp của Ngài đều được lợi ích, an vui hạnh phúc.

Trong lịch sử Phật giáo có ghi lại một sự kiện vô cùng đặc biệt khi Đức Phật vừa đản sanh, đó chính là hình ảnh hài nhi khi vừa sinh ra đã đi bảy bước, mỗi bước đều có hoa sen nở dưới chân.

Theo tinh thần của Phật giáo, con số 7 mang nhiều hàm nghĩa:  

- Đó là biểu trưng cho bảy vị Phật: Phật Tỳ-bà-thi của kiếp quá khứ; Phật Thi-khí của kiếp quá khứ; Phật Tỳ-xá-phù của kiếp quá khứ; Phật Câu-lưu-tôn của kiếp hiện tại; Phật Câu-na-hàm-mâu-ni của kiếp hiện tại; Phật Ca-diếp của kiếp hiện tại và thứ bảy là Phật Thích Ca kiếp hiện tại giáo hóa chúng sanh trong thế giới ta bà. 

- Biểu trưng cho Thất chúng (Bảy chúng đệ tử Phật): Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Thức-xoa-ma-na, Sa di, Sa di ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di.

- Biểu trưng cho Thất Thánh quả: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác, Bồ-tát và Phật.

- Biểu trưng cho Thất Bồ Đề phần (7 phần giác ngộ): Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Niệm, Định và Xả.

- Biểu trưng cho 7 phương vị: Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới và tại Đây. Tất cả các địa hạt từ vật nhỏ nhất như vi trần cho đến vật lớn như núi Tu Di đều không ngoài con số bảy này.


Với thượng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, bảy bước đi của bậc Toàn giác hàm chứa nhiều tầng nghĩa mà không phải ai cũng am hiểu, thấu tỏ. Đại Tùng Lâm Hoa Sen trân quý mời Quý Phật tử, Quý Liên hữu cùng tìm hiểu Ý nghĩa của Bảy bước Sen nở kính mừng ngày Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Đản Sanh 08/04 Âm lịch - Đón mừng Đại Lễ Phật Đản DL.2024 - PL.2568: 


BƯỚC THỨ NHẤT: Đức Phật nhìn về Phương Đông và bảo rằng: “Phương Đông ấy chính là ngọn đuốc soi đường tối thượng cho chúng sanh". (Thị Đông phương vị chúng sinh vi đạo thủ cố).

Phương Đông là phương của mặt trời mọc, tượng trưng cho trí tuệ của chúng sanh. Trong kinh Pháp Hoa có nói: “Các Đức Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ tát, những điều làm ra thường vì một việc: Chỉ đem tri kiến Phật cho chúng sanh tỏ ngộ thôi”.  Và Đức Phật tái sanh để giáo hóa, giúp chúng sanh được khai mở trí tuệ, ngộ nhập tri kiến Phật vốn có của chính mình.


BƯỚC THỨ HAI: Đức Phật nhìn về Phương Nam và bảo rằng: “Phương Nam ấy chính là ruộng phước an lành cho chúng sanh gieo gặt”. (Thị Nam phương vị chúng sinh lương phước điền cố).

Đức Phật là một bậc Đại Giác Lưỡng Túc Tôn, Ngài đã huân tập tu hạnh nhẫn nhục, bố thí một cách Ba-la-mật từ vô thỉ kiếp. Bố thí cả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan, cả mắt, tai, mũi, lưỡi… Ngài nhận ra rằng, muốn giải thoát thì trí tuệ thôi chưa đủ, phải có thêm phước đức. Vì thế, Ngài cần có đầy đủ phước đức và trí tuệ để làm ruộng phước cho chúng sinh nương vào đó mà gieo hạt. Ngài lấy phương Nam để chỉ cho chúng sinh nhờ phát huy trí tuệ, biết quán chiếu vào sâu trong lòng thực tại nên biết quy hướng về những nghiệp nhân tốt lành.


BƯỚC THỨ BA: Đức Phật nhìn về Phương Tây và bảo rằng: “Phương Tây ấy chỉ cho chúng sanh cách hóa giải động cơ sinh tử, chấm dứt sanh thân cuối cùng”. (Thị Tây phương vị chúng sanh dĩ tối hậu thân cố).

Phương Tây là phương mặt trời lặn, để chỉ cho sự an nghỉ tuyệt đối của tâm thức. Thân của Đức Phật sẽ đi vào cõi vô sanh bất diệt hay gọi là Niết bàn khi Phật pháp có người truyền thừa, nhưng trí tuệ và phước đức vô biên của Đức Phật vẫn còn hiển hiện nơi đây để cho chúng sinh gieo phước cúng dường.


BƯỚC THỨ TƯ: Đức Phật nhìn về phương Bắc và bảo rằng: “Phương Bắc ấy chỉ cho chúng sanh là ta đã được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác”. (Thị Bắc phương vị chúng sanh ngã đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề). Đến đây, Đức Phật bắt đầu vận chuyển bánh xe pháp để cứu độ chúng sinh. 

Trong quá trình tu tập để đạt đến đạo quả Bồ đề, với trí tuệ siêu việt. Ngài nhận ra tâm Phật và chúng sanh vốn không sai biệt, nhưng muốn đạt được sự cứu cánh giải thoát thì chúng sanh phải bỏ qua tâm ích kỷ, hẹp hòi của mình, biết thực hành Lục Độ Ba-la-mật như Bồ Tát Địa Tạng đã phát nguyện: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề”. Nhưng không dừng lại ở hạnh nguyện đó, phải tiếp tục hạnh nguyện độ tha cho đến khi đạt đến Phật quả mới thôi. Vì lòng từ bi vô lượng, Đức Phật đã tu tập đến quả vị Vô Thượng Bồ đề để cho chúng sanh nương nhờ mà lấy đó làm gương.


BƯỚC THỨ NĂM: Đức Phật nhìn xuống Phương Dưới và bảo rằng: “Phương Dưới ấy Ta sẽ giúp cho chúng sanh chinh phục ma lực để vượt thoát khổ đau” (Thị Hạ phương vị chúng sanh dị dục hàng ma cố).

Phương dưới là những nơi u tối, ví như những phiền não chướng và sở tri chướng. Không những thế, còn có những cám dỗ ngoại ma bên ngoài tác động, làm cho chúng sanh vướng phải, là nguyên nhân của việc sanh tử luân hồi. Sở dĩ chúng sinh rơi vào ba đường xấu ác của tham ái, si mê, sân hận cũng là do căn cơ, nghiệp lực của chúng sinh còn nặng. Nghiệp sinh từ ý, khẩu, thân và bị thúc đẩy bởi ba độc tham, sân, si. 

Thấy được điều đó, Ngài đã phát nguyện tu hành vì chúng sanh mà hàng phục những ma chướng đó. Đó là quá trình Bồ tát phát khởi tu tập xả bỏ chấp trước nội tâm hay ngoại cảnh để thành tựu “Tứ vô lượng tâm” (Từ, Bi, Hỷ, Xả). Bởi chỉ khi đạt được chánh quả thì mới hàng phục được những ma chướng này, mới làm thầy dẫn đường cho chúng sanh đạt được giải thoát cứu cánh.

Vì lòng thương tưởng đến nhân sinh đang có nhiều đau khổ do ma lực gây ra, nên Ngài tuyên thuyết chân lý để cho mọi chúng sanh đoạn trừ những tham chấp ấy. Muốn vượt thoát khổ đau, chúng sanh phải đưa tâm thức hướng thượng, cùng quy hướng tu tập. 


BƯỚC THỨ SÁU: Đức Phật nhìn lên Phương Trên và bảo rằng: “Phương Trên ấy là chỉ cho chúng sanh đang sống đúng với năm nhân cách và tu tập mười thiện nghiệp” (Thị Thượng phương vị chúng sanh quy y thiên nhân cố). Đây là những thiện nghiệp cần hướng tới thực tập để thóat khỏi khổ đau.

Đức Phật thấy được chúng sanh tuy phát tâm tu hành, dùng trí tuệ Bát-nhã để quán chiếu dẹp trừ ma chướng cho chính mình. Đồng thời, Ngài cũng thấy rằng, trên lộ trình giải thoát sanh tử đó chúng sanh khi ý chí mỏi mệt rất cần nơi nương tựa, cần có một bậc giác ngộ toàn năng chỉ đường. Đó chính là Người cha lành của muôn loài, Người đã vì chúng sanh mà phát hạnh nguyện lợi tha. Vì lòng từ bi rộng lớn đó, Đức Phật sẽ là người cho chúng sanh nương tựa, tiếp thêm sức mạnh, nghị lực cho chúng sanh, dẫn dắt chúng sanh trên con đường tìm cầu Phật đạo, giải thoát cho chính mình.


BƯỚC THỨ BẢY: Đức Phật một tay chỉ Trời, một tay chỉ Đất và bảo rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Vô lượng sanh tử, ư kim hỷ tận”. Ta bị trôi lăn trong ba cõi sáu đường đều do ngã chấp chi phối, và đến kiếp này là sinh thân cuối cùng của Ta vậy.

Đức Phật ra đời với bản nguyện là cứu độ chúng sinh, Ngài là nơi để chúng sinh quy hướng về. Ngài tuyên bố như vậy để cho vũ trụ hoàn cầu này biết rằng: Đấng Tối Tôn đã ra đời, nơi quy hướng, nương tựa của muôn loài đã xuất hiện, để chúng sinh biết đến Ngài, quy hướng về Ngài và được Ngài hóa độ. 

Ðức Phật đã thấu rõ là: “Tâm không thể nắm bắt từ bên trong, từ bên ngoài hay ở giữa. Tâm vô hướng, vô niệm, không có chỗ sở y, không nơi chốn quy túc. Các đức Như Lai không thấy tâm trong quá khứ, trong hiện tại, hay ở vị lai” .

Ðến đây Đức Phật xác quyết: “Sinh đã tận, lậu đã tận, gánh nặng đã để xuống, những việc nên làm đã làm, từ nay không còn trở lại sinh tử nữa”. Công hạnh tự giác, giác tha, giác hạnh đã viên mãn, một vị Phật ra đời giữa thế gian. Một tiến trình từ phàm phu đến quả vị Phật phải trải qua bảy bước, mà chư Phật quá khứ, Đức Phật Thích Ca trong hiện tại đã thành, và những vị Phật tương lai sẽ thành. Trên trời dưới đất chỉ có chân ngã, chính là bản tâm thanh tịnh là đáng tôn kính. Chính cái chân thể độc tôn này là viên ngọc Phật tánh thường hằng, thanh tịnh bất biến trong mỗi con người. Chỉ có cái chân thể độc tôn này mới cho chúng sanh an lạc, giải thoát cứu cánh. Chính vì vậy mà Đức Bổn Sư đã thọ ký: "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành".



Theo dấu chân Phật, đại chúng sẽ thấy từng bước chân của đấng xuất trần thượng sĩ khi đản sanh đều có ý nghĩa rất sâu sắc, cao thượng và cũng biểu hiện Ngài là bậc tối thượng, bậc tôn quý vô thượng. Bảy bước chân của Đức Phật cũng có ý nghĩa là Ngài đã đi qua hết cả lục đạo luân hồi: Cõi Địa ngục, Cõi Ngạ quỷ, Cõi Súc sinh, Cõi Người, Cõi Thần (A-tu-la), Cõi Trời, tất thảy Ngài đều vượt qua. Tất cả sáu cõi Ngài đều không còn nhân để sinh vào nữa, không còn ở trong Tam giới này nữa.

Thật vậy, bảy bước sen nở ấy chính là bảy hạnh lành của Đức Phật khi Ngài hội nhập thị hiện vào cuộc đời, đem giáo pháp của ba đời chư Phật y như pháp mà hóa độ chúng sanh, dẫn dắt chúng sinh ra khỏi luân hồi sanh tử. Hiểu được hàm nghĩa của bảy bước đi từ bi, trí tuệ, an lạc, vô nhiễm ấy, nguyện mong rằng tất thảy đại chúng, những người con Phật, chư đệ tử của Đức Phật sẽ tu hành đúng pháp, hoằng truyền theo đúng Chánh pháp của Đức Phật để dần thoát ra khỏi những cấu uế, phiền não, tri kiến mê lầm, quay về nương tựa bóng Bồ Đề cao cả của Đức Phật mà bước đi trên con đường giác ngộ để giải thoát những khổ đau, để được an lạc, hạnh phúc.

Hướng kính Đại Lễ Phật Đản PL.2568 – DL.2024, đón mừng ngày Khánh đản của Đức Thế Tôn, kính lễ Đấng Pháp Vương vô thượng, ngưỡng nguyện Ngài gia hộ cho tất thảy đại chúng thể nhập bước chân đến Đại Tùng Lâm Hoa Sen đều có được tín tâm kiên cố, thật tâm phát nguyện tu hành, nương tựa vào thắng hiệu “A Di Đà Phật”, cùng một chí hướng trên con đường tu học, duy trì mạng mạch Phật pháp thiêng liêng và Pháp môn Tịnh Độ tối thắng, cùng phát tâm nguyện tu hành ngay hiện tiền để thành tựu vãng sanh khi lâm chung. 

Đồng chí tâm hồi hướng nguyện khắp pháp giới các chúng sinh thảy đều thể nhập vô sinh nhẫn. Nguyện tiêu ba chướng sạch phiền não, nguyện được trí tuệ thật sáng ngời, nguyện cả tội chướng thảy tiêu trừ, đời đời thường hành Bồ-tát đạo. Nguyện đem công đức tu hành này chan rải mười phương khắp tất cả hết thảy chúng sinh cùng muôn loài đồng được thấm nhuần mưa pháp, chứng ngộ Phật thừa, trọn thành Phật đạo.

NAM MÔ LÂM TÌ NI VÔ ƯU THỌ HẠ THỊ HIỆN ĐẢN SANH
BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ ĐẠI BI A DI ĐÀ PHẬT
 
KÍNH MỪNG NGÀY ĐỨC PHẬT ĐẢN SANH THỊ HIỆN 08/04 PL.2568 - ÁNH ĐẠO VÀNG SOI TỎ VÀO LÒNG VẠN PHÁP, SOI SÁNG KHẮP CẢ THẾ GIAN
Ban Lien Huu 15 tháng 5, 2024
Share this post
Lưu trữ
THÔNG BẠCH: CHƯƠNG TRÌNH CỘNG TU TỊNH ĐỘ MỪNG ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PL.2568 - DL.2024 TẠI ĐẠI TÙNG LÂM HOA SEN
Lễ Phật Đản được tổ chức vào tháng 4 âm lịch hàng năm là một sự kiện mang ý nghĩa vô cùng thiêng liêng của Phật giáo, là ngày kỷ niệm Đức Từ Phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh tại Vườn Lâm Tì Ni vào năm 624 TCN (Nhằm ngày 15 tháng 04 Âm lịch). Sự thị hiện ở đời của Ngài như đoá hoa bất diệt nở trong vòng sanh diệt và là duyên khởi cho mọi thiện pháp, duyên khởi cho sự giải thoát đem đến hạnh phúc, an lạc, lợi lạc cho chư Thiên và loài người.