Niệm Phật là yếu tố trọng tâm nhất của pháp môn Tịnh độ - Chí tâm niệm Phật Tịnh độ hiện tiền
Bản chất cực lạc là trạng thái an vui về phương diện cảm xúc, nhận thức và hành trì. Trong trạng thái đó, tất cả dòng chảy cảm xúc của buồn, vui, thương, ghét, giận… nói chung là những cảm xúc âm tính đều vắng lặng. Nhờ trạng thái vắng lặng các phiền não mà con người thiết lập được cực lạc ngay trong cuộc đời này.
“Vô não, vô ưu chơn Cực Lạc
Bất cấu, bất nhiễm thị Tây phương
Duy tâm Tịnh Độ khẳng thừa đương
Bản tánh di đà do tự giác”.
Nghĩa là:
“Không cấu không nhiễm ấy là tây phương.
Không phiền não, ko ưu tư vọng động là Cực Lạc.
Khẳng định Tịnh Độ ở tại tâm.
Bản tánh di đà do tự giác ngộ”
Tây phương Cực Lạc là cảnh giới an lành của đức Phật A-di đà và là nơi mà các vị liên hữu mong mỏi phát nguyện vãng sinh về. Mục đích của bản kinh là giúp hành giả có mặt ở Tây phương, không còn bị nhiễm cấu trần lao, thái độ chấp trước và nhiễm đắm không còn. Bản chất của pháp môn Tịnh độ bao gồm ba yếu tố là niệm Phật, thiền quán và chánh định. Tuy là pháp môn đơn giản nhưng lại dung thông các pháp môn khác. Niệm Phật là yếu tố trọng tâm nhất của pháp môn Tịnh độ.
Thực ra, giá trị của niệm Phật vượt lên trên sự thắng thua hay những ứng dụng về phước báu mà con người có thể có trong cuộc đời. Trong tinh thần kinh A-di-đà, trì danh hiệu của đức Phật A-di-đà là để nắm lấy các giá trị tâm linh mà tất cả chúng ta cần phát huy trong đời này. Và bản chất của giá trị tâm linh nằm ở chỗ con người dụng tâm, hành trì như thế nào.
Trong kinh A-di-đà, tông chỉ niệm Phật gồm nội dung liên hệ đến cư dân Tịnh độ. Gọi là cư dân để giúp ta có cái nhìn gần gũi hơn và thấy được hiệu quả do thực hành đúng phương pháp mà hành giả có thể đạt đến. Kinh mô tả các hành giả được vãng sanh về đây đều là những bậc Thượng thiện nhân, bậc A-bệ-bạt-trí, bậc Nhứt Sanh Bổ Xứ, nói chung họ đều là bậc Thánh.
Phương pháp chánh niệm của các cư dân Tịnh độ gắn liền với pháp môn niệm Tam Bảo, nghĩa là niệm Phật, Pháp và Tăng. Niệm Tam Bảo có nguồn gốc từ phương pháp Lục niệm trong truyền thống kinh điển Pàli đó là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới (đời sống đạo đức), niệm Bố Thí (các giá trị nhường cơm xẻ áo, chia sẻ cho người đang có nhu cầu), niệm Thiên (niệm về kết quả sanh ở cõi trời hoặc các hành tinh có đời sống thuận lợi hơn so với cõi Ta bà).
Ngay khi niệm Phật, buông bỏ tất cả để lòng rỗng không, rồi đề khởi danh hiệu Phật, vừa nghe vừa niệm, vừa niệm vừa nghe, nối nhau không dứt, hành trì lâu dần tất có lúc tương ưng.
Niệm Phật giúp con người duy trì được chiều sâu của đời sống tâm linh thông qua việc gắn liền với các hạnh lành mà Thế Tôn đã sống và truyền bá mang lợi lạc đến chúng sinh.
Niệm chánh Pháp là cách thức gợi nhớ đạo Phật là con đường của tuệ giác, từ bi, có thể tháo gỡ mọi bế tắc khổ đau của kiếp người.
Niệm Tăng là cách thức nhớ về những người xuất gia chân chính, có nhiều kinh nghiệm tu tập dấn thân và hành xử, giúp người cư sĩ tại gia có cơ hội bắt chước hạnh nguyện của chư Phật; nhờ đó có cuộc sống an lạc.
Ba phương pháp niệm Giới, niệm Bố Thí và niệm Thiên được xem là những so sánh căn bản giúp hành giả có được giá trị hành trì. Nhìn thấy được kết quả của hành trì ở hiện tại cũng như trong tương lai, hành giả sẽ có thái độ tinh tấn, vững chãi, không hề bị lùi sụt. Do đó, phương pháp Lục niệm được xem là cơ hội giúp hành giả làm lớn mạnh các hạt giống của chánh niệm và tỉnh thức.
Trong đạo Phật, niệm Phật, Pháp, Tăng phải gắn liền với những đức tính mà con người cần có. Phật trong khái niệm “niệm Phật” là chư Phật nói chung với mười hai danh hiệu và mỗi danh hiệu là một hạnh nguyện. Đó là: Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Khi niệm mười danh hiệu, ta nhớ đến tiềm năng Phật tính trong ta. Niệm danh hiệu của đức Phật A-di-đà là tông chỉ của pháp môn Tịnh độ và được sánh ví như cách phát huy tiềm năng giác ngộ lớn trong mỗi con người. Danh hiệu đức Phật là điều kiện quan trọng giúp hành giả đạt được trạng thái nhiếp tâm.
Trong kinh A-di-đà, việc niệm Phật được hiểu là niệm đức Phật A-di-đà với hai đức tính quan trọng là Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ.
Không nên hiểu Vô Lượng Quang theo nghĩa đen là hào quang toả ra, hào quang không phải là tia ánh sáng mà là vùng từ trường tâm linh, có giá trị tuệ giác, từ bi, sự chuyển hoá và khai thông tất cả mọi ách tắc về cảm xúc, nhận thức của con người.
Khi niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà, hành giả liên tưởng đến tiềm năng tuệ giác không bị giới hạn bởi điều kiện vật lý và thời gian, nhờ đó hành giả chuyên nhất tâm vào tông chỉ và pháp môn, từ đó khai mở tiềm năng tuệ giác. Lúc ấy, hành giả sẽ sống trong sự cộng hưởng Vô Lượng Quang của Phật A-di-đà.
Vô Lượng Thọ là yếu tố chung của các cư dân, Thánh giả. Khi chứng đắc được đạo quả thì tiến trình sanh tử luân hồi sẽ bị chặt đứt. Chặt đứt được sanh tử thì yếu tố tuổi thọ sẽ không bị giới hạn bởi năm tháng. Nếu qua đời thì đó là hạnh nguyện để dấn thân ở những nơi khác. Chính vì thế mà tuổi thọ của cư dân nơi đây rất lâu dài. Nghĩa thứ hai của Vô Lượng Thọ là khi hành giả phát huy tiềm năng giác ngộ thông qua danh hiệu đức Phật A-di-đà thì sự hành trì rất bền vững. Nghĩa là khi hành trì pháp môn nào thì phải tới nơi tới chốn và không bỏ cuộc nửa chừng. Vô Lượng Thọ gợi lên hình ảnh bền bỉ, không bị bất cứ trở duyên hay ảnh hưởng ngoại tại nào có thể làm ta bỏ cuộc trên con đường tu tập.
Niệm Phật trong kinh A-di-đà như là tiến trình của sự quán niệm. Quán niệm là nhu cầu thiết lập dòng chảy chánh niệm và tỉnh thức thông qua danh hiệu của đức Phật A-di-đà. Bản chất của khổ đau nằm ở tình trạng con người cắt đứt sự hiện hữu với chánh niệm. Đặt thân và tâm ở hai địa điểm khác nhau, là tách sự hiện hữu của tâm ra khỏi dòng chảy của hiện tại, tâm dễ dàng bị phóng túng và tiến trình của sự quán niệm bị cắt đứt.
Nhận thấy được ý nghĩa đó, hành giả hãy nhất tâm niệm Phật và phát nguyện vãng sanh theo lời dạy của đức Phật A-di đà trong kinh này: “Bất luận nam nữ, muốn được vãng sanh thì hãy chuyên cần, khởi lòng khát ngưỡng, nhớ nghĩ không quên, thực tập quán niệm, nhất tâm bất loạn, trong vòng một ngày, cho đến bảy ngày. Trong giờ phút này, tâm ý người ấy phải thật yên tĩnh, như vào thiền định, không còn tán loạn, điên đảo mộng tưởng. Đến lúc qua đời, Phật A-di-đà, Thánh chúng hà sa dang tay tiếp dẫn, khiến được vãng sanh, dự hàng thánh chúng, không hề chia phân.”
Tài liệu tham khảo:
Thế giới Cực Lạc, phân tích ứng dụng Kinh A-di-đà, NXB Hồng Đức