Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Và Đạo Phật là đạo của giác ngộ và giải thoát. Sự giác ngộ và giải thoát ấy chính là đạt được trí tuệ, vì chỉ có trí tuệ mới là mục đích tối thượng để đưa con người đến con đường hạnh phúc. Trí tuệ lại được thành tựu trên nền tảng của chánh kiến và sự tu tập, đó là sự hiểu biết sáng suốt, đúng đắn, chân thật.
Tự mình biết rõ, hiểu rõ đó là chánh kiến, có chánh kiến mới hiểu được giáo lý chánh pháp và thực hành đem lại lợi lạc cho tự thân, cho mọi người
Chánh kiến là một sự nhận thức đúng đắn, hoàn chỉnh, như thật tuệ tri. Đó là nhận thức đúng về đạo đức của cuộc sống, về nhân duyên, vô thường, vô ngã, Niết-bàn, về khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường thoát khổ. Chính nhận thức, quan điểm đúng đắn và hợp lý sẽ đưa đến hành động và lời nói đúng đắn, hợp lý. Hành động và lời nói đúng đắn, chân thật đưa đến sự an lạc giải thoát cho chính mình, cho mọi người trong hiện tại và tương lai. Như Đức Phật đã dạy trong Kinh Pháp Cú:
Có lỗi, biết có lỗi,
Không lỗi, biết là không;
Do chấp nhận Chánh kiến
Chúng sanh đi cõi lành.
Đối với phương diện thế gian thì tiền bạc, danh lợi, địa vị được xem là thước đo, là yếu tố để đánh giá một người thành đạt trong xã hội. Nhưng về phương diện xuất thế, sự nghiệp trí tuệ được xem là quan trọng nhất, vì để xứng đáng trở thành người kế thừa mạng mạch Phật pháp của đức Như Lai thì điều quan trọng nhất cần phải có đó là “Tuệ giác”.
Một hành giả tu học phải có cái thấy biết đúng như thật về bản chất của các pháp là duyên sanh, vô thường, khổ, không, vô ngã, đây chính là tuệ giác. Trí tuệ của đạo Phật không phải là nhờ sự học tập, tích lũy kiến thức trong đời sống hằng ngày mà có được. Thế nên Phật giáo đặt trọng tâm vào sự thành tựu trí tuệ, tức là sự chứng ngộ chân lý của vạn pháp, nhờ vào kiến thức và tư duy đó ứng dụng vào việc chuyển hóa thân tâm giúp đoạn trừ được vô minh, phiền não, đem đến sự an lạc, giải thoát ở hiện đời cũng như trong tương lai.
Trí tuệ được ví như “con thuyền” làm phương tiện đưa chúng sanh từ bờ sinh tử vô minh sang bờ kia là niết bàn giải thoát. Trí tuệ muốn được phát sanh thì hành giả phải thực hành thiền quán. Vì thiền quán là cơ sở của tuệ giác, là nội dung thực tập tất yếu nhất và đóng vai trò quan trọng không thể thiếu của người con Phật. Thiền quán, thực chất là sự tu tập tuệ căn (ngũ căn), chánh kiến (Bát chánh đạo), tuệ (Tam vô lậu học). Tuệ giác của thiền quán sẽ quét sạch mọi tham ái, vô minh, phiền não.
Nơi nào có chánh kiến thì nơi đó có cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, tất cả khổ đau được chuyển hóa tận gốc rễ
Trí tuệ là ngọn đuốc sáng giúp cho chúng ta thoát khỏi bóng tối vô minh. Trí tuệ có được cũng do chính từ những kinh nghiệm thực chứng của bản thân về các pháp, cái biết này không phải là cái biết của tri thức thế gian. Trí tuệ là chìa khóa của giải thoát, muốn có được trí tuệ thì chúng ta phải sống chánh niệm tỉnh thức, để tiếp xúc và nhìn thấy chân tướng của các pháp, cũng như nhận biết rõ ràng những gì đang hiện hữu trong tâm thức của chúng ta do ngoại duyên tác động.
Trí tuệ theo lời dạy của đức Thế Tôn, không nhất thiết là có tri thức cao, bởi tri thức không đủ năng lực chuyển hóa được phiền não. Người có trí tuệ luôn biết nhìn thẳng vào sự thật và chấp nhận sự thật dù đau thương nhưng vẫn nỗ lực, tinh tấn, chuyển hóa để thăng hoa trên bước đường tu học. Như hoa sen tinh khiết và ngát hương vươn lên từ nơi bùn lầy; cũng vậy, trí tuệ được khai mở từ trong đêm tối vô minh, tội lỗi khi chúng ta biết đem ánh sáng chân lý của giáo pháp Phật đà mà soi rọi, tức là phải dùng chánh kiến nhìn thẳng, dùng chánh tư duy để suy ngẫm,... và dần dần xa rời ác nghiệp, chuyển hóa thân tâm dần trở nên thanh tịnh, tiến đến sự giải thoát.
Trong Phật giáo, “niềm tin” có vai trò quan trọng tạo nên sức mạnh tiềm tàng và vô tận, nó thôi thúc sự nỗ lực phấn đấu để vươn tới mục đích cao cả và tối thượng. Nhưng niềm tin đó phải là chánh tín, chân chánh, có chánh kiến và được đặt cơ sở của sự hiểu biết, trí tuệ. Chính sự hiểu rõ, biết rõ, quan điểm, nhận thức đúng đắn, như thật tuệ tri, mà một vị đệ tử Phật thành tựu được “chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối, thành tựu diệu pháp”, chứng ngộ, giải thoát và tối thượng Niết-bàn.
Có thể nói, chánh kiến có liên hệ rất mật thiết đến các phương cách nhận thức, ứng xử và hành trì trong cuộc sống hằng ngày của một hành giả tu tập trên tiến trình giác ngộ và giải thoát. Đến với Đạo Phật bằng con đường trí tuệ, học được chánh kiến sẽ giúp chúng ta tự hoàn thiện nhân cách của bản thân để tiến tu đạo nghiệp, hướng đến đạt được cái nhìn tuệ giác. Chỉ có trí tuệ mới giúp cho bản thân ta và cả những chúng sanh hữu duyên với ta tìm về bến giác, thoát ly tham dục, khổ đau, sinh tử luân hồi.
Bất cứ một vị đệ tử xuất gia nào cũng phải hiểu rõ giáo lý này, bởi đó là kim chỉ nam và phương pháp tu tập để đưa đến giải thoát của bậc Thánh. Nhưng muốn thành tựu đời sống của bậc Thánh thì phải thực tập hành trì để tự chuyển hóa từ phàm thành Thánh, từ khổ đau thành hạnh phúc, từ bóng tối u minh đi đến ánh sáng của trí tuệ. Chánh tri kiến chính là nền tảng căn bản cho những nhận thức về sự vật, hiện tượng và yếu tố then chốt để thành tựu được tất cả Pháp của Đạo Phật nói chung. Chính vì thế, Đức Phật đã chọn chánh tri kiến làm bước đầu tiên trên con đường tiến đến hạnh phúc, an lạc. Đó là sự hiểu đúng, biết đúng với sự thật, với chân lý “như lý tác ý” hay “như thật tuệ tri”.
Tài liệu tham khảo:
Tìm hiểu giáo lý Phật giáo Nguyên Thủy, NXB Phương Đông.
Kinh Trung Bộ, tập I, Kinh Chánh tri kiến, Đại Tạng Kinh Việt Nam Nam Truyền, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
Kinh Trung Bộ, tập II, Đại Kinh Bốn Mươi, Đại Tạng Kinh Việt Nam Nam Truyền, NXB Tôn giáo, Hà Nội.