Pháp tu Quán Thế Âm nhĩ căn viên thông – Phản văn văn tự tánh
Theo quan niệm Phật giáo, mỗi khi từ bi hiện hữu là hẳn nhiên trí tuệ sẽ có mặt. Và đối những người con của Đức Phật, bên cạnh sự cầu nguyện, giãi bày những nỗi niềm sâu kín đôi khi không thể nói ra với người thân, thì Quán Thế Âm còn là một hạnh tu, là phương pháp thực tập, luôn lắng nghe với sự chân thành không phán xét. Thực tập hành trì hạnh lắng nghe để mình và người sống bình yên, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.

Hạnh nguyện “Từ Bi” của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát

Bồ-tát Quán Thế Âm tiếng Phạn là Avalokitecvara, nghĩa là quán xét tiếng tâm đau khổ của đời để cứu độ. Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni chép: Trong vô lượng kiếp về quá khứ, Đức Quán Thế Âm đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như-Lai. Vì nguyện lực đại bi nên hiện thân Bồ-tát để độ chúng sanh. 

Đức Bồ-tát Quán Thế Âm vốn được biết đến là biểu tượng cho hạnh nguyện từ bi. Trên phương diện niềm tin, Ngài là một vị Bồ-tát hiện diện khắp nơi, với vô vàn hóa thân khác nhau để cứu độ chúng sinh, như hạnh nguyện từ bi vô điều kiện của Ngài: “dùng mọi thân hình vào mọi thế giới mà hóa độ cho chúng sinh” đã được Đức Phật nói trong phẩm Phổ môn thuộc kinh Pháp hoa.


Kinh Quán Âm Tam Muội, đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng có nói Quán Thế Âm Bồ-tát là một vị cổ Phật ấy. Kinh Bi Hoa chép trong thời quá khứ Bồ-tát Quán Thế Âm là thái tử con vua Vô Tránh Niệm. Đồng thời có đức Bảo Tạng Như-Lai ra đời giáo hoá chúng sanh. Thấu triệt giáo lý do đức Phật ấy truyền dạy, vua phát tâm cầu đạo và giáo hóa chúng sanh. Nhà vua cúng dường đức Phật luôn trong ba tháng và tinh tấn tu hành; thái-tử cũng vậy. Khi công hạnh vẹn toàn, vua thành Phật hiệu là A-Di-Đà ở Tây Phương cực lạc. Thái-tử cũng sanh về thế giới ấy và thành Bồ-tát hiệu Quán Thế Âm để trợ giúp Phật A-Di-Đà tiếp dẫn chúng sanh.

Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ-tát có thuật lại phương pháp tu hành của Ngài là do nghe, suy nghĩ, và tu tập mà nhập chánh định. Bắt đầu Ngài tu từ sự nghe. Trong một cái nghe mà trước tiên là phải quán triệt tiền trần rồi bỏ luôn quán trí và cuối cùng diệt hết đế lý. Ngài chuyển dụng khả năng nghe tiếng bên ngoài mà nghe lại tự tánh nghe của mình. Đến lúc những cái sinh diệt diệt hết thì tánh vắng lặng hiện ra và khi ấy chứng được “nhĩ căn viên thông”, được hai thứ thù thắng: một là đồng với từ lực của mười phương chư Phật, hai là cảm thông lòng cầu mong thương cứu của chúng sanh trong sáu đường.

Phản văn văn tự tánh – Pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm 

Pháp môn của Bồ-tát Quán Thế Âm chính là phương pháp phản văn văn tự tánh, tức không xuôi dòng đuổi theo âm thanh mà trở ngược lại tánh nghe, tức là từ cái nghe để trở về tự tánh của mình, tức là dùng Trí chiếu soi chứ không dùng Thức Tai mà nghe. Trong cái nghe của Ngài, Ngài chuyển dụng khả năng nghe tiếng bên ngoài, để nghe lại tự tánh nghe của mình. Đến lúc những cái sinh diệt diệt hết thì tánh vắng lặng hiện ra và khi ấy chứng được “nhĩ căn viên thông”, được hai thứ thù thắng: đồng với từ lực của mười phương chư Phật và cảm thông lòng cầu mong thương cứu của chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi.

Tự tánh là bản thể của tâm, vốn không sanh, không diệt và ngay đây chủ thể hay đối tượng nghe đều không tồn tại. Nghe được tự tánh tức là nghe đến tận cùng sâu thẳm của vô thanh, nghe cái tịch nhiên im lặng sấm sét. Ngay đây, phiền não rơi rụng, tuệ giác hiện tiền, thực tại hiển bày “vượt ngoài thế gian và xuất thế gian, sáng suốt cùng khắp mười phương, trên thì hợp với bản giác diệu tâm mười phương chư Phật đồng một từ lực với Như Lai, dưới hợp với tất cả chúng sanh đồng với chúng sanh một lòng bi ngưỡng”.

Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ, nghe rồi suy nghĩ để tu nghĩa là nghe ở tai, suy nghĩ ở tâm và tu trong sự làm thì trí tuệ vô lậu phát sinh mà vào được chánh định. Nghe ở đây là nghe chánh pháp, nghe Phật pháp và suy nghĩ là suy nghĩ đúng với chân lý thì sự thực hành mới có lợi lạc, mới phát sinh trí tuệ sáng suốt.


Bắt đầu từ khi cái nghe đối với thanh trần không khởi phân biệt theo thanh trần, nên thanh trần tự vắng lặng; xong còn cái nghe. Đến giai đoạn thứ hai là cái nghe (năng, sở) cũng hết, xong còn cái hết. Đến tầng thứ ba không chấp ở nơi hết, xong còn cái biết hết. Đến tầng thứ tư là cái biết đó cũng không, xong còn cái không. Nên đến tầng thứ năm là cái không đó cũng không còn. Lúc bấy giờ các cái vọng niệm phân biệt chấp trước đều hết, thì chân tâm thanh tịnh tự hiện bầy; cũng như các cặn đục đã hết, thì tánh nước trong tự hiện. Mười phương các đức Phật hay các vị Đại Bồ Tát tu hành, chỉ có một con đường duy nhất là trừ hết vọng thì chân hiện bầy, như lau gương sạch bụi, thì ánh sáng tự hiện, thế gọi là thành Phật, hay là chứng Đại Niết Bàn.

Kinh Pháp-Hoa phẩm Phổ-Môn đức Phật giải thích, nếu có vô lượng trăm nghìn vạn ức chúng sanh bị các khổ não, nghe danh hiệu của Bồ-tát này liền nhứt tâm xưng danh của Bồ-tát, thì tức thời Bồ-tát nghe tiếng kêu cầu rồi làm cho tất cả đều được giải thoát. Vì thế nên gọi là Quán Thế Âm.

Và Pháp môn tu hành của Ngài là “dùng nhĩ căn quán chiếu thanh tịnh,” khi căn trần thanh tịnh thì chứng được viên thông. Ấy là pháp môn có tác dụng đặc biệt với chúng sanh trong cảnh giới Ta-bà này.

- Diệt ĐỘNG thì TỊNH sanh

- Diệt TRẦN thì CĂN sanh

- Diệt CĂN thì GIÁC sanh

- Diệt GIÁC thì KHÔNG sanh

- Diệt KHÔNG thì TỊCH DIỆT sanh tức là có thanh tịnh Niết bàn.

Một khi chơn tâm, Phật tánh hiện tiền thì sơn hà đại địa sẽ chuyển hóa thành tri giác vô thượng và từ đó thần thông diệu dụng phát sinh. Thực tập hành trì theo đúng Pháp tu Quán Thế Âm nhĩ căn viên thông (phản văn văn tự tánh) sẽ đưa hành giả đạt đến trí tuệ tận cùng và sau cùng chứng được Lăng Nghiêm tam muội để có giải thoát giác ngộ viên mãn.

Tài liệu tham khảo: 

- Kinh Quán Thế Âm Cứu Khổ 


trong Tin tức
Pháp tu Quán Thế Âm nhĩ căn viên thông – Phản văn văn tự tánh
Ban Lien Huu 6 tháng 10, 2022
Share this post
Tag
Lưu trữ
Vững chãi tinh tấn - Đức tính cần có ở người con Phật
Đức Thế Tôn, một con người vĩ đại mang tình thương lớn đến với nhân loại. Suốt thời gian hoằng truyền chánh pháp, Ngài đã để biết bao lời dạy được chư Tổ ghi lại thành những bản kinh vừa có giá trị về văn học lẫn triết học… Nếu chúng ta học tường tận, áp dụng vào cuộc sống thường nhật, quả là cuộc đời vẫn đẹp sao!