Phát triển tuệ tri - Dùng tuệ quán để soi chiếu thế gian
Trong Kinh Đại Bát Nhã, Đức Phật dạy rằng: “Chẳng có duyên khởi nào là hữu thường; Chẳng có duyên khởi nào là khả tín; Cái không của tất cả các pháp như vậy chính là tự tính không”.

Hơn 2.500 năm trước, Đức Phật đã dạy những giáo lý về Vô thường, Khổ đau và Vô ngã, trong khi Ngài đang lưu trú tại thung lũng của dòng sông Hằng. Khi Đức Phật đi ngang qua một khu rừng nọ, Ngài bốc lên một nắm lá và bảo: “Này các Tỳ-kheo, những điều mà Như Lai dạy các con, có thể sánh với nắm lá trong tay này, còn những điều Như Lai hiểu biết mà không dạy giống như tổng số các lá cây trong rừng”.

Sau 49 ngày thiền định ở gốc cây Bồ Đề, Đức Phật đã chiêm nghiệm ra và trở thành vị Phật Chính Đẳng Chính Giác tối thượng và ngài đã thấu được rõ bốn sự của thế gian - đó chính là Tứ diệu đế. Cùng với sự yêu thương chúng sinh, Đức Phật muốn đem mọi thứ Ngài giác ngộ được truyền bá tới mọi người. Cũng từ đó giúp chúng sinh mau thoát khỏi con đường khổ đau.

Trong các bài kệ 277, 278, 279 của Kinh Pháp Cú, Đức Phật đã dạy rất rõ cho hàng Thanh Văn về “Phát triển tuệ tri”.

Bằng tuệ quán chiếu soi thế giới

Các hành kia dính với vô thường

Không còn đau khổ sầu vương

Thênh thang các bước con đường an vui.

(Kệ 277 - Kinh Pháp Cú)

Chữ “hành” là thuật ngữ chỉ các sự vật được hình thành mang tính điều kiện, được hình thành bởi các yếu tố. Trên thế giới này, không có vật nào được hình thành trong tự thân của nó. Nó phải nương vào các duyên. Như vậy, mọi sự vật hiện tượng đều mang tính hữu vi, tính điều kiện, tính vô thường. Đó được gọi là “hành”, tức vận động, chuyển biến, thay đổi không cố định, không đứng yên một chỗ. Cho nên bản chất của mọi sự vật, hiện tượng là vô thường. Ở đây Đức Phật khẳng định rằng, để thấy rõ được các quy luật đơn giản này, ta phải dùng tuệ quán chứ không nhìn bằng mắt, vì nhìn bằng mắt đôi lúc sẽ bị ngộ nhận và lạc dẫn. 


Cùng với sự yêu thương chúng sinh, Đức Phật muốn đem mọi thứ Ngài giác ngộ được truyền bá tới mọi người, giúp chúng sinh thoát khỏi con đường khổ đau

Đức Phật dạy “dùng tuệ quán để chiếu soi thế gian”. Tuệ quán nghĩa là nhìn bằng trí tuệ, quan sát vẫn đề bằng trí tuệ, nên thấy rõ ràng. Người đó dù bị mù từ thuở nhỏ, hay bị mù khi lớn lên, vẫn tiếp tục chiếu soi bằng trí tuệ về bản chất vô thường của mọi sự vật, hiện tượng. Nếu thấy được vô thường thì sẽ bớt đi nỗi khổ niềm đau, vì ta đã có một thái độ chuẩn bị về tâm lý. Mỗi người đều phải trải qua sinh, lão, bệnh, tử. Khi biết rõ mạng sống con người vô thường giống như ngọn đèn treo trước đó, ta không đập ngực than khóc khổ đau, bế tắc, giống những người tin rằng không có sự chết, trường sinh bất tử. 

Mặc khác của tuệ quán về vô thường là mọi điều mới được phát sinh, mọi tốt lành đều tăng trưởng, mọi thay đổi tích cực đều diễn ra. Hãy nhìn thấy yếu tố quan trọng và tích cực của vô thường để chúng ta không than vãn cuộc đời, bi quan, yếm thế, chán chường, tuyệt vọng. Phản ứng trước vô thường dẫn đến khổ đau đối với người không tu tập. 

Đức Phật đã dạy trong kệ 278 kinh Pháp Cú như sau: 

Bằng tuệ quán chiếu soi thế giới

Các hành kia dính với khổ đau

Không còn bất hạnh, muộn sầu

Con đường thanh tịnh, đạo mầu an vui.

Người thiếu tu, khi vô thường đến thì tiếc nuối, nói rằng sở hữu của tôi nên nỗi khổ niềm đau trỗi dậy, bám víu và không thể nào dứt ra được. Người tiếc nuối tài sản, bỏn sẻn tài sản, quan trọng hoá về tài sản sẽ là người dễ bị vô thường bắn những mũi tên khổ đau vào trong nhận thức và đời sống. 


Đức Phật dạy: Chẳng có duyên khởi nào là hữu thường; Chẳng có duyên khởi nào là khả tín

Ai thực tập bố thí, cúng dường tức là buông xả nhiều, làm các việc thiện có giá trị nhân văn, nhân bản, nhân đạo nhiều thì khi vô thường đến với mình như thế nào, ta chấp nhận như thế ấy. Ta bớt khổ và ta hết khổ, vì ta biết đó là quy luật, vượt qua nó và mọi thứ sẽ trôi qua một cách nhẹ nhàng, không vương vấn, không vướng kẹt, không chấp trước. 

Trong kệ 279 kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy về thực tập vô ngã như sau: 

Bằng tuệ quán chiếu soi tất cả

Các hành kia vô ngã xưa nay

Không còn đau khổ ngay đây

Đạo vàng an lạc phút giây hiện tiền.

Vô thường là một hiện thực không thể phủ định và ta cũng không cần phải hành động thái quá để kháng cự lại tiến trình vô thường. Chỉ cần sống thong dong, sống không vướng chấp, sống không sợ hãi, ta sẽ cảm thọ được niềm an lạc, thoải mái, mạnh khoẻ và hạnh phúc. Mỗi khi khổ đau liên hệ đến thân vô thường, nỗi khổ liên hệ đến tâm vô thường thì ta phải thực tập vô ngã. Đức Phật dạy ta quán chiếu như sau: “Thân thể này không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi, không phải là sở hữu của tôi”. Thân thể này do tinh cha, huyết mẹ hình thành, nương vào vật thực mà lớn lên. Cho là của mình là đang xí cái tính sở hữu, vốn không thuộc về mình, nó chỉ là vay mượn. 

Trong bài kinh Nhứt Thiết Lậu Hoặc (Bảy Cách Dứt Trừ Khổ Đau), Đức Phật dạy: Có những khổ đau phải được giải quyết bằng chánh tri kiến, có nghĩa là phát triển trí tuệ và cái nhìn như thật về mọi sự vật, hiện tượng. Có những nỗi khổ, niềm đau được kết thúc bằng việc ta bảo hộ tâm như là giữ thành, để cho chánh niệm luôn hiện hữu trong đời sống của mình. Có những nỗi khổ, niềm đau được kết thúc do ta làm chủ được sự tiêu thụ của thân – khẩu – ý. Có những nỗi khổ, niềm đau được kết thúc do ta có tâm kham nhẫn, có nghĩa là kiên trì, nhẫn nại, bền bỉ, không bỏ cuộc nửa chừng, giáp mặt với khổ đau, bế tắc, chấp nhận các rủi ro và thách thức. 


Đức Phật dạy hàng Thanh Văn hãy "dùng tuệ quán để soi chiếu thế gian"

Có những nỗi, khổ niềm đau được kết thúc bằng phương pháp đối trị trực tiếp, tức là trừ diệt. Người có tâm tham thì thực tập từ bi và bố thí. Người có tâm sân thì thực tập thông cảm, hiểu biết và trí tuệ để được hoan hỷ. Người có tâm si nên thực tập tu văn tuệ, tu tuệ để trí tuệ được phát triển, có nghĩa là dùng phương pháp đối trị trực tiếp để vượt qua các nỗi khổ, niềm đau. Có những nỗi khổ, niềm đau được kết thúc là do tu tập tâm, tu tập Bát chánh đạo.  

Đó là bài kinh mang tính phương pháp luận tâm linh, hay nói cách khác pháp môn duy nhất của Đức Phật là Tứ diệu đế. Mở rộng từ Tứ Diệu đế ta có phương pháp Quán vô ngã trên vô thường để ta không bị khổ đau chi phối. Trong nhiều bài kinh, Đức Phật khẳng định: “Nếu ai không thoả mãn với hạnh phúc trần đời, với tư cách tại gia, có thể chọn con đường tâm linh xuất gia và đi trọn vẹn, rốt ráo trên hệ thống con đường đó, lấy Tứ Diệu Đế làm nền tảng”

Tứ diệu đế được coi là cốt tủy, là nền tảng của hệ thống giáo lý trong đạo Phật. Và Tứ diệu đế cũng là bài Pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển bánh xe Pháp Luân, thuyết Pháp cho 5 anh em ông Kiều Trần Như. Từ đó, xuyên suốt 49 năm hoằng pháp, Ngài đã thuyết giảng Tứ diệu đế với tất cả chúng sinh hữu duyên. Bởi đây chính là con đường chân lý, giúp chúng sinh hiểu thấu sự khổ và đưa chúng sinh thoát khổ.

Tài liệu tham khảo: 

Đạo Phật Pháp Môn & Đạo Phật Nguyên Chất, NXB Hồng Đức 

Phật Giáo là Phật học đại chúng, Huỳnh Văn Thanh dịch, NXB Hồng Đức  

trong Tin tức
Phát triển tuệ tri - Dùng tuệ quán để soi chiếu thế gian
Ban Lien Huu 6 tháng 11, 2022
Share this post
Tag
Lưu trữ
Giữ gìn tâm thức mãi trong xanh
Trong mỗi con người, tâm ác lấn chiếm nhiều phần hơn tâm thiện, vì thế Đức Phật dạy chúng ta phải luôn phát triển tâm thiện và ngăn chặn tâm ác phát sinh. Đức Phật đưa ra hình ảnh ví dụ cụ thể rõ ràng, dễ hiểu: Nước trong ao hồ không phải lúc nào cũng trong, có lúc nó bị ngoại duyên khuấy động làm cho nước trong trở thành nước đục. Muốn giữ gìn cho nước trong mãi, chúng ta phải biết giữ gìn, bảo quản và lọc bỏ bợn nhơ ra khỏi ao nước ấy.