Tín - Hạnh - Nguyện: "Tư Lương" Để Sinh Về Tây Phương Cực Lạc
Tín – Hạnh – Nguyện là ba yếu tố mà người tu theo pháp môn Tịnh độ cần phải có, như ba món tư lương cần thiết để sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc. Tín tương ưng với Định, niềm tin kiên cố không lay chuyển. Hạnh tương ưng với Giới, chỉ cho sự thực hành, hành trì, công phu tu tập. Và Nguyện tương ưng với Tuệ, trí tuệ sáng suốt soi đường dẫn lối để hành giả đi đúng con đường đến giải thoát.

Tín: Trong kinh A Di Đà có nhiều lần đề cập đến đức tin này. Ví dụ phần Lục phương Phật, chư Phật trong sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài mà nói lời thành thật rằng: “Nhữ đẵng chúng sinh đương tín thị", "Xưng tán bất khả tư nghì công đức nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Ở một đoạn khác Đức Phật nói rằng: Nếu chúng sinh nào nghe kinh này và nghe danh hiệu của chư Phật mà thọ trì thì người ấy được tất cả các Đức Phật hộ niệm và đều được bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng chánh giác, và Ngài khuyên “Thị cố, Xá Lợi Phất! Nhữ đẳng giai đương, tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết" (Cho nên, này Xá Lợi Phất! Các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các Đức Phật nói). Đức Phật cũng nói rằng khi Ngài nói kinh này thì chư Phật ở mười phương thế giới đã khen ngợi và tỏ ý thán phục Ngài, vì Ngài đã làm một việc rất khó là ở trong đời ác năm trước mà có thể tu hành thành đạo Bồ-đề.

Hạnh: Hạnh là thực hành. Có nhiều phương pháp thực hành trong pháp môn Tịnh độ. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật dạy pháp Trì danh niệm Phật: “Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu: nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhược tâm bất loạn. Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền. Thị nhân chúng thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sinh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ” (Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đến Đức Phật A Di Đà rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung Đức Phật A Di Đà cùng hang Thánh chúng hiện thần ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sinh về cõi nước Cực lạc của Đức Phật A Di Đà). Ngoài ra, để bảo đảm cho việc vãng sinh được chắc chắn, Đức Phật còn khuyên hành giả nên làm thật nhiều phước đức bởi vì, như Ngài đã nói trong kinh A Di Đà, “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sinh bỉ quốc”. (Không thể dung chút ít căn lành hay phước đức mà có thể sinh qua nước kia được).

Nguyện: Trong kinh A Di Đà, Đức Phật rất nhiều lần khuyên chúng sinh nên phát nguyện sinh về thế giới Cực lạ của Đức Phật A Di Đà: “Xá Lợi Phất! Ngã kiến thị lợi, cổ thuyết thử ngôn, Nhược hữu chúng sinh, văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sinh bỉ quốc độ… Xá Lợi Phất! Nhược hữu nhân, dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sinh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng, giai đắc bất thối chuyển, ư a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sinh, nhược kim sinh, nhược đương sinh. Thị cố, Xá Lợi Phất! Chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện, sinh bỉ quốc độ”. (Xá Lợi Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế. Nếu có chúng sinh nào, nghe nhũng lời trên đó, nên phải phát nguyện sinh về cõi nước Cực Lạc… Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sinh về cõi nước của Đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặn không thối chuyên nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng chánh giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sinh về rồi, hoặc hiện nay sinh về, hoặc sẽ sinh về. Xá Lợi Phật! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sinh về cõi nước kia).

Tín, Hạnh và Nguyện được xem như "kiềng ba chân" mà nếu thiếu một chân thì không thể vãng sanh.Trong ba yếu tố đó thì Tín và Nguyện có vai trò tiên quyết cho sự vãng sanh, còn Hạnh thì sẽ đưa đến quả vị thấp hay cao trong chín phẩm liên hoa. Đại sư Ngẫu Ích khai thị rằng: “Muốn nhanh chóng thoát khỏi nỗi khổ luân hồi, không gì bằng Trì danh niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật cầu sinh về thế giới Cực Lạc. Muốn chắc chắn vãng sanh cõi Cực lạc thì không gì bằng lấy “Lòng tin” làm người dẫn đường phía trước, sự “Phát nguyện” làm người thúc đẩy ở sau. Tin sâu, nguyện tha thiết, dù tâm tán loạn niệm Phật cũng được vãng sinh. Tin không chân thật, nguyện không mạnh mẽ, dù nhất tâm không loạn cũng chẳng được vãng sinh”.

Tin sâu, Nguyện thiết là quan trọng nhất. Và tất nhiên, nếu Hành chuyên, tức là tu tập, hành trì một cách chuyên nhất, miên mật nữa thì còn gì bằng. Kết quả đạt được chắc chắn sẽ vô cùng mỹ mãn. Trong tác phẩm Đường mây qua xứ tuyết (Nguyên Phong dịch), tác giả Anagarika Goavinda kể cho chúng ta nghe câu chuyện của Hòa thượng Ajo mà tác giả đã gặp ở Tây Tạng.

Ajo và Reto cùng theo học một thầy. Reto là một học giả tinh thông kinh điển, có thể giảng giải, trích dẫn hầu như tất cả sách vở một cách dễ dàng trong khi Ajo chỉ chuyên tâm lễ bái, thiền định. Lạt-ma Reto ghi danh vào Đại học Drepung, tốt nghiệp thủ khoa, trở thành một pháp sư nổi tiếng của Tây Tạng trong khi Lạt-ma Ajo vẫn ẩn tu tại làng Chumbi. Sau nhiều năm không gặp nhau, một hơm Pháp sư Reto có dịp công du qua làng cũ. Nhớ đến người huynh đệ đồng môn, ông bèn ghé lại ngôi chùa xưa thăm hỏi. Gặp nhau cả hai đều mừng rỡ và chuyện trò vui vẻ. Reto bèn hỏi Ajo đã tu học đén đâu. Lạt-ma Ajo thành thật thưa rằng bao năm nay chỉ chuyên tụng một bộ kinh A Di Đà mà thôi. Pháp sư Reto lắc đầu than cho chú em quê mùa hủ lậu, kinh điển thiên kinh vạn quyển không đọc mà chỉ đọc tụng có một bộ kinh tầm thường mà gần như ai cũng biết. Reto bèn giảng dạy cho Ajo một hồi về những pháp môn cao siêu  cho đến tận khuya mới đi ngủ. Vừa chớp mắt ít lâu, ông đã giật mình tỉnh giấc vì thấy ánh sáng ở đâu chói lòa cả một vùng. Ánh sáng này phát ra từ phía chánh điện ngôi chùa nên ông ngạc nhiên rời trú phòng bước ra xem thế nào. Ông thấy Lạt-ma Ajo đang chấp tay đánh lễ, trì tụng hồng danh Đức Phật A Di Đà trong khi quanh ông hào quang sáng rực cả chánh điện. Reto thấy trong hào quang đó có một ao sen lớn bằng các thứ ngọc báu với những lâu đài, dinh thự toàn bằng vàng. Ngoài ra còn có những giống chim lạ cất tấu lên những giai điệu hòa nhã, vi diệu, nghe nhu tiếng giảng kinh, rồi trời đổ mưa hoa, những bông Mạn-đà-la rơi xuống ao báu tỏa sáng khắp nơi.

Pháp sư Reto nín thở theo dõi cho đén khi Lạt-ma Ajo trì tụng xong bộ kinh A Di Đà thì linh ảnh đó mới biến mất. Quá xúc động, Reto vội bước vào hỏi làm sao Ajo lại có được thần thông như vậy. Lạt-ma Ajo cho biết ông không hề có thần thông gì cả mà chỉ chuyên tâm trì tụng kinh và niệm sáu chữ hồng danh. Reto như vẫn chưa tin hoàn toàn, hỏi rằng làm sao lại có hào quang sáng ngời trong chánh điện và những linh ảnh lạ lùng, chắc chắn phải có những phương pháp tu luyện gì nữa. Lạt-ma Ajo cho biết ông không hề áp dụng một phương pháp gì ngoài việc gìn giữ thân, khẩu, ý cho thật thanh tịnh, trang nghiêm để trì tụng kinh và niệm Phật A Di Đà.

Kinh Tâm địa quán dạy rằng: "Như người không tay, tuy đến núi báu vẫn không lấy được gì. Người không có lòng tin, dầu gặp Tam bảo cũng không ích gì”. Tín – Hạnh – Nguyện còn là một biểu hiện khác của Giới – Định – Tuệ. Tín tương ưng với Định, niềm tin kiên cố không lay chuyển. Hạnh tương ưng với Giới, chỉ cho sự thực hành, hành trì, công phu tu tập. Và Nguyện tương ưng với Tuệ, trí tuệ sáng suốt soi đường dẫn lối để hành giả đi đúng con đường đến giải thoát. Duy tuệ thị nghiệp, duy nguyện vãng sanh. 

Tài liệu tham khảo:
Kinh A Di Đà, NXB Tôn Giáo
Con đường tu tắt - Pháp môn Tịnh độ (Trích trong Tây-Qui Trực-Chỉ và Lão-Nhơn Đắc-Ngộ)


trong Tin tức
Tín - Hạnh - Nguyện: "Tư Lương" Để Sinh Về Tây Phương Cực Lạc
Ban Lien Huu 29 tháng 9, 2022
Share this post
Tag
Lưu trữ
THÔNG BÁO CỬ HÀNH CHƯƠNG TRÌNH LỄ VÍA QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT 19/9/NHÂM DẦN - PL.2566 TẠI CHÙA ĐẠI TÙNG LÂM HOA SEN
Đức Bồ Tát Quán Thế Âm có nhân duyên đặc biệt với chúng sanh trong cõi Ta-bà. Dù đã nhập Niết-bàn ở trong thế giới vô vi, tâm Ngài vẫn luôn luôn hướng về chúng sinh, lòng từ bi cứu độ chúng sinh của Ngài như ánh mặt trời luôn chiếu soi, tỏ rạng và lan toả đến muôn phương.